Bài gốc: http://caocongkien.blogspot.com/2013/06/chong-copy-bai-viet-tren-blogspot-phan-2.html#ixzz3LaJhsJbr Bài viết đã được đăng ký bản quyền. Bạn vui lòng ghi rõ nguồn để thể hiện nhân cách của bạn! Xin cảm ơn!

kinh dịch

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

NGUYỆT KIẾN, NHẬT THẦN


1. NGUYỆT TƯỚNG


Nguyệt Tướng, tức là Nguyệt Kiến, lại là Nguyệt Lệnh. Nó nắm quyền trong một tháng, tư lệnh trọn ba tuần (1 Tuần=10 ngày; 3 Tuần=30 ngày). Trong một tháng 30 ngày, nó đương quyền đắc lệnh.



Nguyệt Kiến nắm mối chánh của muôn việc bói, nó xét dữ lành hết cả 6 hào, hay trợ quẻ hào nào suy nhược, hay bớt hào tượng nào vượng cường, chế phục hào nào động biến, phò khởi Phi Thần, Phục Thần ra hữu dụng.

Nguyệt Tướng là chủ soái cầm quyền, muôn việc bói đều lấy nó làm cương lĩnh.

Hào này suy nhược, thì nó hay sinh, hợp, tỷ, củng, phò, nên suy mà cũng ra vượng. Hào cường vượng, thì nó hay xung, khắc, hình, phá, nên vượng mà cũng ra suy.

Trong quẻ có biến hào khắc chế động hào, thì Nguyệt Kiến hay chế phục biến hào.

Trong quẻ có động hào khắc chế tịnh hào, thì Nguyệt Kiến cũng hay khắc chế động hào.

Dụng Thần phục tàng bị Phi Thần yểm trụ, thì Nguyệt Kiến xung khắc Phi Thần, sinh trợ Phục Thần, mới có thể dùng.

Hào gặp Nguyệt Hợp mới hữu dụng, hào gặp Nguyệt Phá thì vô công.

Nguyệt Kiến hợp với hào thì thành Nguyệt Hợp, đó là hào hữu dụng. Nguyệt Kiến xung với hào, thì thành Nguyệt Phá, đó là hào vô công.

Nguyệt Kiến chẳng nhập hào cũng là hữu dụng, Nguyệt Kiến nhập hào rồi càng thấy cương cường.

Quẻ không có Dụng Thần mà Nguyệt Kiến là Dụng Thần thì lấy Nguyệt Kiến làm Dụng Thần, chẳng cần phải tìm Phục Thần.

Nguyệt Kiến nhập quẻ, động làm Nguyên Thần, tác phước còn lớn nữa, động mà làm Kỵ Thần, làm họa còn sâu nữa. Không nhập quẻ, thì còn huởn.

Hào gặp Nguyệt Kiến và vượng tướng, phải gọi là gặp Không mà chẳng Không, gặp Thương mà chẳng hại. Người xưa có cái thuyết này, tôi thí nghiệm không ra vậy: "Ở trong Tuần rốt cuộc là Không".

Như tháng Dần, ngày Canh Tuất, chiếm cầu tài, đặng quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu.

--- Quan Tỵ Ứng
- - Phụ Mùi
--- Huynh Dậu
--- Phụ Thìn Thế
--- Tài Dần (Tuần Không)
--- Tử Tí

Đoán rằng: Dần Mộc Tài là Dụng Thần, hào Tài khắc Thế. Tài này sẽ đặng mà hiện giờ còn là Không. Phải chờ tới ngày Giáp Dần, ra khỏi Tuần Không mới là đặng Tài. Quả tới ngày Giấp Dần thì đặng.

Nếu cho gặp Không chẳng Không, là sai. Nếu ở trong Tuần, thì còn Không Vong. Ra ngoài Tuần mới chẳng Không.

Gặp Không chẳng Không, rốt rồi chẳng phải cái không đáo để (luôn luôn). Gặp Thương cũng thương, mà phải biết đợi chờ thời. Cho nên Dụng Thần gặp Không, đừng có chỉ mà nói là chẳng Không, rốt cuộc là Không. Nhưng cái Không này là cái Không ở trong Tuần hiện tại. Chờ ngày nào hết Tuần đó thì chẳng Không nữa.

Làm Kỵ Thần, hiện ra thì gây họa. Làm Nguyên Thần, hiện ra thì tác phước. Chứ không phải là Chân Không của hưu tù, rốt cuộc là Không.

Hào gặp Nguyệt Kiến là vượng, hoặc bị hào khác khắc thì gọi là gặp thương. Người chiếm bệnh, trước mắt không mạnh, người chiếm sự, trước mắt không thành. Hãy chờ đến ngày xung khử thương hào, thì hết bị thương nữa. Chừng đó bệnh sẽ mạnh, việc sẽ thành. Cho nên nói gặp thương cũng là thương, nên phải biết chờ thời.

Như tháng Dậu, ngày Bính Dần, chiếm về yết kiến quý nhân. Đặng quẻ Sơn Phong Cổ, biến ra Sơn Thuỷ Mông.

--- Huynh Dần Ứng
- - Phụ Tí
- - Tài Tuất
--- Quan Dậu 0 --- Tử Ngọ
--- Phụ Hợi
- - Tài Sửu

Thế nhằm Nguyệt Kiến làm Quan Tinh, định sẽ gặp mặt, song bị Ngọ Hỏa hồi khắc. Phải chờ ngày Tí xung khử Ngọ Hỏa, mới là đặng bái kiến.

Quả đắc kiến ngày Bính Tí. Cho nói nên: Gặp thương cũng thương, nhưng phải chờ thời mới được.

Ngày Tuyệt, ngày xung, ngày khắc, phải coi ở chỗ khác có sinh phò, hóa Tuyệt, hóa Mộ, hóa khắc không. Lại còn sợ hào khác thêm chế khắc.

Hào gặp Nguyệt Kiến, mà gặp Mộ ở ngày, cùng là Nhật Kiến xung khắc thì có thể chống lại, ra cảnh không cát không hung. Trường hợp gặp hào khác cũng động tương phò, thì thêm điềm cát. Chỉ có sợ hào khác đến chế khắc Dụng hào. Tuy gặp Nguyệt Kiến cũng là khó đương nổi.

Như tháng Dần, ngày Bính Thân, chiếm coi làm quan có được thăng thưởng hay đổi đi? Đặng quẻ Cấn biến ra Sơn Lôi Di.

--- Quan Dần Thế
- - Tài Tí
- - Huynh Tuât
--- Tử Thân 0 ---- Huynh Thìn
- - Phụ Ngọ
- - Huynh Thìn X - Tài Tí

Dần Mộc làm Quan tinh trì Thế, gặp Nguyệt Kiến nên vượng tướng. Tuy bị hào Thân xung khắc, mà mừng có Thân Tí Thìn hợp thành Thuỷ Cục để sinh Quan. Chẳng những vô hại, mà tháng 3 sẽ cao thăng. Quả tới tháng Thìn thì được nhậm chức. Rất ứng với lời bàn sẽ thăng, là Dụng hào nhờ Thuỷ Cục sinh phò. Ứng tháng Thìn Thổ ra ngoài Chân Không. Ứng thăng nhậm là vì Thế với Quan Tinh đều ở Tại hào 6.

Lại như tháng Ngọ, ngày Đinh Mùi, chiếm cho biết em bị tụng sự cát hay hung. Đặng quẻ Khổn biến ra Lôi Phong Hằng.

- - Phụ Mùi
--- Huynh Dậu 0 --- Huynh Thân
--- Tử Hợi Ưng
- - Quan Ngọ X ---- Huynh Dậu
--- Phụ Thìn
- - Tài Dần Thế

Dậu Kim Huynh làm Dụng Thần, bị tháng Ngọ khắc. Nhờ ngày Mùi sinh, nó có thể chống lại được. Nhưng chẳng hợp là tại động hào Ngọ Hỏa tương khắc. Chính là chỗ nói "rất sợ hào khác thêm chế khắc". Họ hỏi:

- Có hại lớn không?
- Ngọ Hỏa là Nguyệt Kiến, động ở trong quẻ, đó gọi là "nhập quẻ", còn thêm cương cường. Lại cũng gọi là Nguyệt Kiến làm Kỵ Thần, gieo họa chẳng nhỏ, là cảnh đại hung.
- Hung về lúc nào?
- Huynh Dậu Kim hóa thoái thần. Năm nay năm Thìn, Thái Tuế tương hợp, thì chưa thấy hại, sợ thoái tới năm Thân thì cùng đường.

Quả trong năm Thìn bị hạ ngục. Rồi tới năm Thân thì bị xử tử.

Tiếp theo là nói về Dụng Thần lâm Nguyệt Kiến:

- Thiên tượng cát, thì từ đây vận thái. Thiên tượng hung thì ngoài tháng mang tai.

- Khắc ít, sinh nhiều, là thiên tượng cát. Khắc nhiều, sinh ít, là thiên tượng hung.

- Thiên Tượng hung mà trong tháng hứa không ngại. Ra ngoài tháng thì bị họa ương.

- Dụng Thần đặng nó, được phước không ít. Kỵ Thần đặng nó, gieo họa chẳng vừa. Đây là nói Dụng Thần trúng Nguyệt Kiến, mà không có hào khác khắc nó; phàm chiếm mọi việc đều kiết. Kỵ Thần trúng Nguyệt Kiến mà Dụng Thần hưu tù, là hết cứu, thì chiếm việc chi cũng hung.

- Sinh phò Kỵ Thần là "trợ ác vi ngược". Khắc chế Nguyên Thần là "kiêu lộ đoạt lương" (chận đường đoạt lương).

- Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần, đặng Nguyệt Kiến khắc chế Kỵ Thần, thì gọi là hữu cứu. Trái lại, nếu Nguyệt Kiến sinh Kỵ Thần, thì là "trợ ác vi ngược".

- Như Dụng Thần đặng Nguyên Thần sinh, Nguyệt Kiến lại sinh Nguyên Thần, thì cát mà thêm cát.

- Trường hợp Nguyệt Kiến khắc chế Nguyên Thần, thì như "kiêu thần đoạt thực", cưỡng đoạt mất miếng ăn của nó vậy.

- Vật cùng thì biến, khí mãn phải khuynh, (đồ đựng đầy quá thì phải tràn).

- Dụng Thần đương suy, mà gặp thời lại phát, cũng như Dụng Thần gặp Hỏa chiếm mùa Đông thì không vượng, gọi là vật cùng thì biến.

Lại như tháng Giêng chiếm quẻ, Dụng Thần trúng Dần Mộc Nguyệt Kiến, đó gọi là đại vượng. Nếu qua mùa Thu, lại gặp Thân xung khắc thì có gì không phá bại!? Cho nên gọi là khí mãn thì khuynh.

Như tháng Dần, ngày Tân Dậu, chiếm khai trương. Đặng quẻ Cấn biến quẻ Minh Di.

Cấn vi Sơn ------- Minh Di
Quan Dần Mộc Thế 0 Tử Dậu Kim
Tài Tí
Huynh Tuất
Tử Thân Kim Ứng
Phụ Ngọ
Huynh Thìn Thổ X Quỹ Mão

Đoán rằng:
- Hào Thế trúng Dần Mộc, đắc lệnh đương thời. Hiện giờ, khai trương thì sẽ được náo nhiệt. Nhưng hiềm vì Nhật Thần khắc Thế, Thế hóa hồi đầu khắc, sinh ít, khắc nhiều. Lại là quẻ lục xung, lục xung thì chẳng lâu.

- Hoặc là do do kẻ hùn hạp chẳng đồng tâm, hay là có chuyện chi khác nữa?

- Quỹ ở một bên mình, khá phòng tật bệnh. Người hùn vốn (partner) nhân dịp đó mới thay lòng đổi dạ, thì anh sẽ bị luỵ.

Quả tới tháng Mùi, đau bệnh kiết. Tới tháng Dậu người hùn vốn lấy hết tiền. Có kiện cáo mà không lấy lại được một đồng. Ai dám nói đương thời vượng tướng không hại? Qua khỏi hồi đó, thì vẫn có hại.

Ứng với tháng Mùi, là vì Mộc Mộ ở Mùi. Người hùn thay lòng đổi dạ, là ứng hào Thân Kim, mùa Thu đương lệnh nên xung khắc. Tài bị cướp hết là vì Tí Thuỷ Tài lạc Không Vong.
-------

- Gặp Tuyệt không Tuyệt, gặp xung không Tán, ngày sinh tháng khắc, coi luôn sinh phò; tháng sinh ngày khắc, xem luôn xung khắc. [Câu này tối quan trọng, hiếm người biết, hoặc chú ý. Học giả ráng nhớ kỹ.]

Nguyệt tướng đương quyền, không thể nào suy tuyệt? Vượng tướng là cang cường, làm sao cho tán? Tháng khắc, ngày sinh, gặp sinh phò thì thêm vượng. Tháng sinh, ngày khắc, gặp chỗ khắc phá (làm giảm lực), rồi cũng suy.

Như tháng Ngọ, ngày Mậu Thìn, chiếm em gái sẽ sinh sản được cát hung. Đặng quẻ Hỏa Địa Tấn.

Hỏa Địa Tấn
Quỷ Tỵ
Phụ Mùi
Huynh Dậu Thế
Tài Mão
Quỷ Tỵ
Phụ Mùi Ứng

Dậu Kim Huynh hào làm Dụng Thần. Nguyệt lệnh khắc nó, nhật kiến sinh nó. Hứa sẽ vô ngại. Ngày Mão hay giờ Mão chắc sinh.

Quả tới ngày Tỵ giờ Mão thì sinh, mẹ con bình yên.

Ứng giờ Mão, là vì Dậu Kim và ngày Thìn tương hợp.

Huỳnh Kim Sách nói: "Nhược phùng hợp trụ, tất phải xung khai". Đó là tháng khắc, mà ngày sinh, không thêm khắc chế, sinh phò.

2-     NHẬT THẦN


Hợi Tí Thuỷ, Thìn Tuất Sửu Mùi Thổ, Dần Mão Mộc, Tỵ Ngọ Hỏa, Thân Dậu Kim.

Nhật Thần làm chủ tể 6 hào, coi về 4 mùa vượng tướng.

Chương trước nói Nguyệt Lệnh tư lệnh 3 tuần (tức 30 ngày). Lệnh ở xuân thì sinh, lệnh ở Thu thì Sát (nghĩa là dù một hào vượng ở mùa Xuân, đến Thu vẫn bị sát như thường). Xuân Hạ Thu Đông, mỗi lệnh theo mùa. Nhật Thần chẳng phải thế, bốn mùa đều vượng, cầm quyền sinh sát, công dụng đồng với nguyệt kiến.

Xung "tịnh" hào vượng tướng, thành "ám động" (không như Nguyệt Lệnh xung hào vượng tướng thành vô lực, thành "Nguyệt Phá"). Xung "tịnh" hào suy nhược, thành "nhật phá".

Hào vượng mà "tịnh", bị Nhật xung tức là thành "ám động", càng thêm lực lượng. Hào suy mà tịnh, bị nó xung tức là tức là thành "nhật phá", càng thêm vô dụng. (Học giả nên chú ý: Nguyệt Phá qua hết tháng hay lúc gặp thời cũng có thể thành sự; còn Nhật Phá thì coi như vô dụng, khó còn cơ hội thành sự. Ghi nhớ: nếu "tịnh hào" được động hào có lực đến sinh, thì sẽ trở thành "ám động", không phải là "Nhật Phá".

Xung Không thì khởi, xung hợp thì khai. (Tức là xung hào bị Tuần Không thì thành thật, xung hào bị hợp khai tán ra).

Hào nào suy nhược, Nhật Thần hay sinh phò củng hợp, như mưa mùa làm tươi mạ. Hào nào cường vượng, nó hay khắc hại hình chế, tựa sương thu giết chết cỏ.

Hào gặp Tuần Không, Nhật Thần xung khởi, mới ra hữu dụng, gọi là "xung Không tắc thật". Hào gặp hợp trụ, Nhật Kiến xung khai, gọi là "hợp xứ phùng xung".

Nhưng hung thần hợp trụ, mừng được gặp xung; cát thần hợp trụ, chẳng nên gặp xung.

Hào nào suy nhược, Nhật Thần có thể sinh nó, vượng nó, hợp nó, đối với đồng loại thì giúp đỡ, phò trợ. Hào nào cường vượng, Nhật Thần có thể hình nó, xung nó, khắc nó, tuyệt nó, mộ nó.

Hào vượng mà động, nó xung càng động. Hào suy mà động, nó xung thì tán.

Có sách nói rằng: "Hào phùng Nguyệt Kiến, Nhật xung nhi bất tán". Đủ biết rõ, hào đương lệnh, chẳng sợ ngày xung. Còn luận về họa phước, chẳng cầu vượng tướng hưu tù, nhất khái đều cho là tán hết. Nhưng tôi thí nghiệm nhiều lần, không dè chẳng ứng với chữ tán đó.

Thần triệu cơ ở động, động thì phải ứng, lại không thấy tán. Hào vượng tướng, bị xung, lại thêm mạnh. Hào hưu tù, vô khí, họa may có tán, nhưng cũng là một trăm phần chỉ có một, hai.

Gặp Nguyệt Phá mà chẳng phá, gặp xung khắc mà không hại.

Hào nhằm Nhật kiến, tháng xung chẳng thể phá, tháng khắc không bị thương, bị động hào khắc cũng không hại, hóa hồi đầu khắc cũng như không, mạnh như thế là như núi, như thép, tựa như đồng quyền cùng Nguyệt Kiến. Mặt nhật lên cao giữa trời, là vượng tướng cùng cực.

Sinh nhiều, khắc ít, cẫm thượng thiêm hoa. Sinh ít mà khắc nhiều, quả bất địch chúng.

Hào trúng Nhật Kiến, còn trong quẻ lại còn có động hào sinh phò, thì như cẩm thượng thiêm hoa.

Hào gặp Nhật sinh, mà Nguyệt Kiến và động hào lại khắc, tựa quả bất địch chúng.


2-       NHẬT THẦN 

Tý thủy-Sửu Thổ-Dần Mộc-Thìn Thổ-Tị Hỏa-Ngọ Hỏa-Mùi Thổ-Thân Kim-Dậu Kim-Tuất Thổ-Hợi Thủy.

Nhựt thần làm chủ tể 6 hào,coi về bốn mùa vượng tướng.

Chương trước nói Nguyệt lênh,tư lệnh trong 3 tuần.Lệnh ở xuân thì sanh,lệnh ở Thu thì sát.Xuân,hạ,thu,đông,mỗi lệnh theo mùa.Nhựt thần chẳng phải vậy,bốn mùa đều vượng,cầm quyền sanh sát; công dụng đồng với Nguyệt Kiến.

Xung tịnh hào được vượng tướng,tức là ám động.Xung tịnh hào đương suy nhược,tức là Nhựt phá.

Hào vượng mà tịnh,xung nó tức Ám động,càng thêm lực lượng.Hào suy mà tịnh,xung nó tức là nhựt-phá,càng thêm vô dụng.

Xung không thì khởi,xung hạp liền khai.

Hào nào suy nhược,mà hay sanh phò củng hạp,như mưa làm tươi mạ.Hào nào cường vượng,mà hay khắc hại hình xung,tợ sương thu giết cỏ.

Hào gặp tuần không,nhựt phá xung khởi,mới ra hữu dụng,gọi là “xung không tắc thực”.Hào gặp hạp trụ,nhựt kiến xung khai,gọi là “hạp xứ phùng xung”.

Nhưng hung thần hạp trụ,mừng được gặp xung;kiết thần hạp trụ,chẳng nên gặp xung.

Hào nào suy nhược,nhựt thần có thể sanh nó,vượng nó,hạp nó,đối với đồng loại thì giúp đỡ,phò trợ.Hào nào cường vượng,nhựt-thần có thể hình nó,xung nó,khắc nó,tuyệt nó,mộ nó.

Hào vượng mà động,xung nó càng động.Hào suy mà động,xung nó thì nó tán.

Có sách nói rằng: “Hào phùng Nguyệt kiến,nhựt xung nhi bất tán”.Đủ biết rỏ,hào đương lệnh,không sợ ngày xung.Còn luận về họa phước,chẳng cầu vượng tuớng hưu tù,đều cho là tán hết.Trọng tại chữ Tán.Nhưng tôi thí-nghiệm nhiều lần,không dè chẳng ứng với chữ Tán đó.

Thần triệu cơ ở động,động thì phải ứng,lại không thấy tán.Hào vượng tướng,bị xung,lại thêm mạnh.Hào hưu tù,vô khí,họa may có tán,nhưng cũng là một phần trăm phần chỉ có một,hai.

Gặp Nguyệt phá mà chẳng Phá,gặp xung khắc mà không hại.
Hào nhằm Nhựt-kiến,tháng xung chẳng thể Phá,tháng khắc không bị Thương,bị động hào khắc cũng không hại , hóa hồi đầu khắc cũng như không,mạnh như thể là như núi,như thép,tợ như đồng quyền cùng Nguyệt kiến .Mặt nhựt lên cao giữa trời,là vượng tướng cùng cực.

Sanh nhiều,khắc ít,cẩm thượng thiêm hoa.Sanh ít,khắc nhiều,quả bất địch chúng.

Hào trúng nhựt-kiến,còn trong quẻ lại còn có hào động sanh phò thì như cẩm thượng thiêm hoa.

Hào gặp nhựt sanh,mà nguyệt-kiến và động hào đồng lại khắc,tợ quả bất địch chúng.

* Như tháng Dậu,ngày Mẹo,chiếm quẻ,hào gặp mẹo mộc,gọi là gặp phá mà không phá.Giả sử trong hào có động,biến ra thân dậu kim,hoặ mẹo hào động hóa ra thân dậu,gọi là quả bất địch chúng,phá cũng là phá;thương cũng là thương.Kỳ dư,cứ đó mà suy.

Như tháng Thân,ngày Mậu ngọ,chiếm bịnh.Đặng quẻ Thiên Sơn Độn,biến ra quẻ Thiên Phong Cấu.

--- Phụ Tuất
--- Huynh Thân Ứng
--- Quỷ Ngọ
--- Huynh Thân
- - Quỷ Ngọ hỏa X Thế ------Hợi Thủy,Tử
- - Phụ Thìn

Thế hào Ngọ hỏa trúng nhựt-thần,vốn chủ vượng tướng,chẳng nên có Thân kim Nguyệt kiến,sanh hợi thủy hồi đầu khắc Thế.Chết tại tháng Hợi.

Lại như tháng Tị,ngày Đinh Hợi,chiếm coi đứa tớ ngày nào trở về.Đặng quẻ Quải biến Ly.

- - Huynh Mùi Thổ X -----Huynh Tuất Thổ
--- Tử Dậu Thế
--- Tài Hợi
--- Huynh Thìn Thổ O ------Huynh Sửu Thổ
--- Quan Tài Ứng
--- Tài Tí

Hợi thủy Tài hào làm Dụng thần.Hợi là Nguyệt phá.Tuy gặp nhựt-kiến,phá mà chẳng phá.Nhưng lại gặp trùng thổ,động và thương khắc nó.

Lời ngạn ngữ nói rằng: “Song quyền bất địch tứ thủ “,chẳng những khó mong đến ngày trở về,còn phải phòng sự bất trắc .
Quả tới tháng Ngọ,ngày Mẹo,đặng tin cho hay rằng bị hại giữa đường.

Nên coi chương này chung với Nguyệt kiến.

Tổng chú: Vượng nó là tới ngày đó,hào được đế vượng.Tỉ nó là hào động với ngày,tháng.

Phò nó,củng nó,nghĩa là: hào với ngày,tháng đồng loại (1)
Mộ nó,Tuyệt nó,nghĩa là: tới ngày đó,hào bị Mộ,Tuyệt .

-Lý Ngã Bình nói:Dịch cho hào trúng nhựt thần,không có cái chi làm tán nó được,làm không nó được,gọi là :gặp tán mà chẳng tán,gặp không mà chẳng không.

-Nhưng hào động mà gặp ngày xung,gọi là:Tán
   Đã làm nhựt thần,đâu lại có nhựt thần đến xung nữa?
Tuần Không là cái không ở trong Tuần.Đã là tuần-không,há đi có cái trúng nhựt thần sao?Cho nên biết sách như vậy là không đủ chứng.
     
-----------------
(1)-Phò là đồng loại mà ở sau,như hợi phò tý,sửu phò thìn.Củng là đông loại mà ở trước,như tý củng hợi,thìn củng sửu.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét