1-KHẮC XỨ PHÙNG SINH
Gặp chỗ này khắc, gặp chỗ kia sinh, đó gọi là khắc xứ phùng sinh. Đại phàm,
Dụng Thần, Nguyên Thần, bị khắc ít, đặng sinh nhiều là cát. Kỵ Thần bị khắc ít,
đặng sinh nhiều là hung. Bởi cớ, Kỵ Thần nên bị khắc, mà không nên được sinh.
Như tháng Thìn, ngày Bính Thân, chiếm em bị trái trời, tình hình đã nguy. Đặng
quẻ Ký Tế, biến ra quẻ Trạch Hỏa Cách.
Thuỷ Hỏa Ký Tế --- Cách
- - Huynh Tí Thuỷ Ứng
--- Quỷ Tuất Thổ
- - Phụ Thân Kim X Huynh Hợi
- - Huynh Hợi Thuỷ Thế
--- Quỷ Sửu Thổ
- - Tử Mão Mộc
Đoán rằng: Nguyệt Kiến là Thìn Thổ, tuy là khắc Hợi Thuỷ Huynh Đệ, mà nhờ ngày
Thân sinh nó, lại nhờ có động hào tương sinh, tuy lâm nguy mà có người cứu.
Quả nội ngày đó, giờ Dậu, gặp Thầy minh y cứu khỏi. Tới ngày Kỷ Hợi, thì toàn
sinh.
2- ĐỘNG TỊNH SINH KHẮC
Sáu hào yên tịnh, hào nào vượng tướng có thể sinh khắc được hào bị hưu tù. Vì
hào vượng tướng tỷ như một người có lực lượng.
Giả như mùa Xuân, tháng Dần Mão, chiếm đặng quẻ Khôn.
Khôn vi Địa
- - Tử Dậu Kim Thế
- - Tài Hợi Thuỷ
- - Huynh Sửu Thổ
- - Quan Mão Mộc Ứng
- - Phụ Tỵ Hoả
- - Huynh Mùi Thổ
Như chiếm cho cha mẹ, Tỵ Hỏa là Phụ Mẫu là Dụng Thần. Hào 3 là Mão Mộc, đương
mùa Xuân, nên vượng tướng, có thể sinh Tỵ Hỏa, thì thành ra hào Phụ Mẫu tướng.
Tỵ Hỏa Phụ Mẫu đã gặp Xuân Mộc tương sinh, Phụ Vượng năng khắc Tử Tôn. Như
chiếm cho con cháu thì Tử Tôn suy.
Xuân Mộc đương lệnh, có thể khắc Sửu Thổ, Mùi Thổ, là Huynh Đệ. Chiếm cho anh
em, thì gọi là Huynh Đệ hưu tù, không có khí. Kỳ dư cứ vậy mà suy ra.
Trong quẻ động hào, thì có thể khắc tịnh hào. Còn tịnh hào dù được vượng tướng,
cũng không thể khắc động hào.
Giả như tháng Dần, chiếm được quẻ Đoài, biến ra quẻ Lôi Trạch Quy Muội.
Đoài vi Trạch --- Quy Muội
- - Phụ Mùi Thổ
--- Huynh Dậu Kim 0 Huynh Thân Kim
--- Tử Hợi Thuỷ
- - Phụ Sửu Thổ
--- Tài Mão Mộc
--- Quỷ Tỵ Hỏa
Dậu Kim phát động, tuy là hưu tù, chứ động cũng khắc được Mão Mộc vượng tướng.
Mão Mộc đương lệnh, có thể khắc Sửu Thổ, Mùi Thổ. Nay Mộc đã bị Kim Thương cũng
khó mà khắc Thổ. Kỳ dư cứ vậy mà suy.
Tịnh cũng như người ngồi, người nằm; động cũng như đi, như chạy.
3- ĐỘNG BIẾN SINH KHẮC, XUNG HẠP
Quẻ có hào động, động thì phải biến. Cái hào mới biến ra có thể sinh khắc xung
hạp hào động tại bổn vị (tức hào vừa động biến ra nó mà thôi), không có thể
sinh khắc các hào khác. Còn các hào khác đối với hào vừa biến ra cũng không thể
sinh khắc nó (nhưng dĩ nhiên có thể sinh khắc hào vừa động biến ra nó). Tức là
hào động có thể sinh khắc các hào khác, còn hào biến thì không; ngược lại các
hào khác có thể sinh khắc hào động, nhưng đối với hào biến thì không). Duy có
Nhật Nguyệt Kiến mới đủ quyền sinh, khắc, xung, hạp được hào biến mà thôi!
Giả như tháng Tí, ngày Mão chiếm được quẻ Khôn, biến ra Hỏa Địa Tấn.
Bát Thuần Khôn -- Tấn
- - Tử Dậu Kim X Phụ Tỵ Hỏa
- - Tài Hợi
- - Huynh Sửu Thổ X Tử Dậu
- - Quỷ Mão
- - Phụ Tỵ Hỏa
- - Huynh Mùi
Hào thứ 6 Dậu Kim phát động. Dậu là động hào, biến ra Tỵ Hỏa, Tỵ là biến hào.
Biến hào Tỵ Hỏa có thể hồi đầu khắc Dậu Kim ở bổn vị, mà không có thể sinh khắc
các hào khác.
Hào thứ 4 là Sửu Thổ động, có thể sinh Dậu Kim ở Thế hào, mà không có thể sinh
hào Dậu Kim mới biến ra, mà hào Dậu Kim này cũng không thể sinh khắc hào nào
khác.
Vậy thì lấy chi chế cái biến hào này được? Duy có Ngày Tháng hay sinh, hay khắc,
hay xung, hay hạp được nó mà thôi. Tại sao vậy? Vì ngày, tháng như Trời, có thể
sinh khắc động hào, tịnh hào, phi hào, phục hào, biến hào, mà các hào này không
thể thương khắc ngày, tháng được.
Huỳnh Kim sách nói: "Hào thương nhật, đồ thọ kỳ danh". Nghĩa là:
"Hào thương khắc ngày, tháng, chỉ có danh chứ không có thực". Như
trong quẻ này, Tí Thuỷ Nguyệt Kiến có thể khắc Tỵ Hỏa là hào Thế mới động biến
ra; Mão là Nhật Kiến có thể xung Dậu Kim là hào Huynh Đệ mới động biến ra.
Kỳ dư cứ vậy mà suy ra.